Thursday, October 20, 2011

NGẮM GƯƠNG PHỤ NỮ XỨ VIỆT

MỘT ĐỜI VÌ CHỒNG VÌ CON

Hôm nay nhân ngày phụ nữ Việt Nam, tôi xin mạn phép nói đôi điều về thiên chức của họ ... trong xã hội phương đông, người phụ nữ phải chịu bao nhiêu sự thiệt thòi, hy sinh ... cả một đời hết hầu hạ chăm sóc gia đình chồng, họ hàng của chồng, đến chăm sóc chồng, chăm sóc con ... họ âm thầm làm việc từ sáng sớm cho đến đêm khuya, những công việc không tên, mà nếu không có bàn tay họ thì cả đống việc đó sẽ dâng cao như núi.


Mẹ già một đời cơ cực vì chồng vì con.

Họ chịu bao nhiêu sự khổ cực như vậy, nhưng vẫn không được trọng dụng như nam giới, đàn bà đái không qua ngọn cỏ, hay các ông bà xưa có câu: "Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô" nghĩa của câu này là: một nam là có mười nữ cũng như không ... nó thể hiện sự phân biệt nam và nữ ... khi sinh con trai ra thì cả dòng họ vui mừng, gia đình tưng bừng ... còn sinh con gái thì buồn phiền, đôi khi chửi thẳng mặt người phụ nữ: đồ không biết đẻ ... Trên vai người phụ nữ bị đè nặng bởi: Tam Tòng Tứ Đức ...  quan niệm này xuất phát từ Nho Giáo. Quyền lợi thì tất cả đàn ông được hưởng: thừa kế tài sản của cha mẹ, thừa hưởng nghề nghiệp, không bao giờ truyền cho con gái hay con dâu ... học hành cũng là đàn ông tiến tới, còn phụ nữ chỉ là quanh quẩn quanh nhà, nấu nướng, hầu hạ từ trên xuống dưới ... Về làm dâu họ được tặng chữ: "Dâu chính lễ rể người dưng" Thế nên mọi việc đều từ bàn tay của người phụ nữ.

Hay một số người nói vui: sinh con gái thì sống sướng chết dở ... vì có con gái nó chăm sóc khi ốm đau, còn khi chết thì không ai nhang đèn cúng giỗ ... còn sinh con trai thì thì sống dở chết sướng, có con trai thì chết được sướng vì nó thờ cúng, nối dõi tông đường ...

Như tôi đây là đứa con trai duy nhất trong gia đình, từ nhỏ chỉ biết học và học, học xong lại bỏ xứ đi xa lập nghiệp, một năm chỉ về quê thăm mấy ngày tết ... còn ngày thường có việc gì hệ trọng mới về, ngoài 30 tuổi rồi mà nhìn lại đã giúp gì cho ba mẹ?

Trai hay gái âu đó là cái duyên mà trời ban cho, có muốn cũng không được ... biết bao nhiêu cặp vợ chồng đi sinh con theo ý muốn, nhờ bác sĩ hay những công nghệ hiện đại để mong sao có được một đứa con trai nối dõi tông đường ... thậm chí còn ác ôn khi siêu âm thấy con gái lại đem đi phá. Xin những bậc cha mẹ đó hãy đến bệnh viện phụ sản để nhìn những đôi vợ chồng bỏ cả gia tài để mong có một mụn con ...

Người phụ nữ phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng còn chịu nhiều sự phân biệt, và đến nay tỷ lệ nam nữ đã chênh lệch rất lớn ... trên truyền hình cũng như báo chí đã đề cập rất nhiều đến chuyện nay ... và nhà nước đã ra luật nếu phá thai nữ là vi phạm pháp luật. Nếu không có phụ nữ thì ai là người đẻ ra ta? ai là người chăm ta khôn lớn từng ngày ... và sau này không có phụ nữ thì ai là người làm vợ ta và sinh cho ta những đứa con ... âu có phải tất cả đều từ phụ nữ mà có?


Thiên chức làm mẹ.

Nếu ai đã có con sẽ hiểu và thông cảm nhiều cho phụ nữ, họ mang nặng đẻ đau, những ngày tháng mang thai là những ngày lo lắng, đi nhẹ, làm nhẹ, ngủ cũng không dám nghiêng một bên sợ chèn con ... đến lúc sinh nở thì vô vàn những nổi lo lắng đè nặng lên đôi vai và khối óc: Sinh con có làm sao không? có mẹ tròn con vuông không? con sinh ra có khỏe mạnh ...

Cái cơ cực cái phân biệt từ bao đời nay cứ đè năng lên vai của người phụ nữ ... họ hết cực bởi phận làm dâu rồi đến cái cực sinh nở ... có những vùng quê khắc nghiệt lúc người phụ nữ mang thai đầu lòng phải về nhà mạ sinh nở: "Con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng" Nhưng có những lúc họ không về kịp nhà mạ đẻ, phải đẻ ở nhà chồng, vậy là nhà chông cất một cái chòi sau vườn, đôi khi là cái chuồng cho đàn bà sinh nở ... rồi bao nhiêu cái kiêng khem trong việc sinh đẻ. Có những cái đúng và những cái chưa đúng ... Đến nay vẫn còn những ý nghĩ sinh con là kiêng không được đi thăm nhà ai hoặc không ai đến thăm nhà đẻ, vì như vậy sẽ bị mắc PHONG LONG (phòng lông), xui xẻo sẻ đến với họ và gia đình họ, làm ăn sẽ thua lỗ, tai ương ập đến ...  Có những người có người thân sinh đẻ, do sợ mắc Phong Long nên không đến thăm nom hỏi han ... họ đâu biết rằng những lúc như vậy gia đình rất cần sự hỏi thăm, chia sẻ ... nó có giá trị cao quý hơn cả đem tặng vàng bạc ... Nếu xét cho đúng ra thì ông bà xưa kiêng khem nói phong long là muốn bà con ít đến thăm, vì nhiều người lạ đến đôi khi mang bệnh đến và em bé bị nhiễm, chứ xui xẻo gì ở đây. Nói vậy các bác sĩ chuyên khoa sản họ nghèo mạt kiếp chắc, gia đình họ gặp lắm tai ương chắc?

Tôi là một người đàn ông có vợ có con, tôi thấm hiểu những nổi khổ của người vợ phải chịu ... những lúc vợ sinh mổ đau kêu khóc, tôi trêu đùa: đau gì mà than ghê vậy? vợ lại nhăn mặt: anh có đẻ đâu mà biết đau hay không? Vâng đàn ông đâu có đẻ đâu mà biết đau hay không? Có mệt không vì cái bụng mang em bé? Cảm ơn vợ đã mang nặng đẻ đau và sinh cho tôi hai đứa con khỏe mạnh, ngoan hiền!

Dòng đời rồi mấy chốc cũng về với cỏ cây hoa lá, về với đất ... lúc đó có mang theo được gì? danh vọng, tiền tài, đấng nam nhi? Rồi khi chết đi anh có nhận được những mâm cao cổ đầy của thằng con trai quý tử cúng giỗ không? Câu hỏi này chắc không ai trả lời được ... và khi đến đời chắt (cháu chắt chiu) ... đứa chắt đó liệu có nhớ ông Vải là ai? Rồi lên vài đời nữa thì việc cúng lạy được đưa ra chi, phái, họ tộc ... đừng khắc nghiệt quá với phụ nữ, hãy thương họ nhiều hơn làm họ khổ.

Nhân ngày phụ nữ Việt Nam cho tôi xin gửi đến quý bà, các mẹ, các chị cùng các em lời chúc sức khỏe, cuộc sống luôn ấm no hạnh phúc, sinh ra những đứa con ngoan hiền và luôn được chồng yêu quý !

Sài Gòn ngày phụ nữ Việt Nam 20-10-2011
Đinh Thanh Hải
Tôi cứ gọi điện cho ông bạn nào để hẹn hò, thì y như rằng một lúc sau điện thoại của các ông bạn lại chuyển sang cho vợ họ để  "thảo luận và quyết đi".

Xứ Việt là một trong những xứ khá tiên tiến về chủ đề "trai gái ngang quyền", so với mức độ phát triển kinh tế - xã hội.

Xứ Việt còn có nhiều thế mạnh riêng cho phụ nữ là đằng khác.

Trước hết xứ Việt có rất nhiều các hội phụ nữ, mà không có hội đàn ông. Vì là đàn ông, thú thực tôi cũng chưa bao giờ biết rõ những hội này họ làm cái gì, vì tôi đâu có bao giờ được tham gia sinh hoạt cùng chị em.

Có các bà mẹ anh hùng, mà không có các ông bố anh hùng.

Rồi có các cơ quan nghiên cứu về phụ nữ, mà không có cơ quan nghiên cứu về đàn ông.

Cuối cùng thì ngành phụ khoa thì đã có truyền thống từ lâu đời, được thưởng nhiều huân chương huy chương. Mãi gần đây thì hình như đã có ngành nam khoa, chắc do ảnh hưởng của diễn biến hội nhập toàn cầu?

...

Ấy thế nhưng chỉ nghiên cứu chay về phụ nữ, chưa chắc đã ra hết chuyện nhé. Tôi chủ trương nghiên cứu thêm những cái "gương" của phụ nữ xứ Việt.

"Gương" của phụ nữ xứ Việt là gì? Chính là đàn ông xứ Việt.

Đàn ông xứ Việt xưa đa phần chỉ biết chăn trâu với đi cày. Buôn bán lặt vặt thêm là phải nhờ do phụ nữ, ra chợ quê thấy ngay. Chăn trâu với đi cày thì dẫu không biết nói, không biết giao tiếp, không biết tính toán… cũng làm được. Ra chợ, thì chỉ riêng không bị mất cắp đã khắc phải giỏi hơn việc đi cày với chăn trâu.

Đẻ con, nuôi con, dạy con, toàn các bà. Mới nói "con ngoan tại mẹ, cháu hư tại bà". Mấy ông bố chỉ quát sai ầm ĩ cho oai, rồi uống vài chén rượu hạt mít và ngủ gật bỏ cuộc. Hơn cả thế, mấy ông có muốn cũng không thể chen vào được cái vòng mẹ con bà cháu của họ, rất lạ. Trẻ con lớn lên với toàn bộ hệ thống chân lý mẹ truyền qua lời ru và chuyện kể câu được câu chăng của các mẹ các bà. Và bọn chúng, cả gái, cả trai đều học được qua các mẹ các bà sự cần cù, tình cảm, ủy mị, nhưng cũng cả sự ẻo lả, đanh đá, chua ngoa.

Không có con số thống kê đo đạc, nhưng tôi quan sát thấy đàn ông Việt có lẽ có hệ số ẻo lả, đanh đá, chua ngoa thuộc loại rất cao trên thế giới.

Ở tầng lớp cao hơn thì nhiều bà vợ phải buôn đông bán tây tất bật, hoặc có khi phải bán nốt cả mấy mẩu ruộng để lo cho mấy ông chồng học gạo thi cử thành danh. Cố mà nhớ hết các điển tích để khoe mẽ, để đối đáp, cố mà nhớ hết các tên húy triều đình để mà chớ có bút sa gà chết.
Học tài, thi phận. May thì đỗ, đỗ thì ra làm quan, làm quan là việc dễ nhất. Làm quan thì khỏi phải học phải nghĩ gì nữa, miệng quan trôn trẻ, cứ với bề trên thì dạ, với bề dưới thì nẹt, với bề trên thì phụng tham, với bề dưới thì nhiễu nhũng. Đừng nhầm bề trên với bề dưới, thế là được. Vậy mà muốn tham với nhũng cũng phải nhờ có tài cán của các bà đi cửa sau, không dễ như lơ vơ đằng trước đâu nhé.
Trượt thì về dạy học, nói cho oai, chứ nhiều khi dạy trẻ trong làng thì cứ chữ tác với chữ tộ thôi, cốt tiên học lễ hậu học văn, đứa nào cãi cho roi vọt, đuổi về. Không đủ học trò để đủ gạo nuôi thày thì… đuổi gà thêm cho vợ. Còn thì lại trần ra các bà vợ, các bà vẫn cứ phải lo toan hết mọi chuyện, mấy ông đồ này khó mà tin cậy được việc gì cho ra đầu ra đũa.

Đàn ông xứ Việt hôm nay tiến nhiều rồi. Tuy nhiên có vẻ vẫn chưa "dứt váy ra đi" thật vững vàng. Tôi cứ gọi điện cho ông bạn nào để hẹn hò, thì y như rằng một lúc sau điện thoại của các ông bạn lại chuyển sang cho vợ họ để  "thảo luận và quyết đi". Sau này tôi lấy số điện của các bà vợ đó, chuyện trò trực tiếp luôn, quyết với nhau xong, rồi thì… thông báo cho các ông bạn tham dự ghé phần. Các ông ấy không ghen, lại còn khoái chí, thế mới lạ.

Mấy ông bây giờ thì cũng đi cày cùng trâu sắt. Chỉ ngăm nghe trốn thuế vợ để có mấy đồng quĩ đen đi uống bia nói chuyện trời biển thôi, không quyết được gì to hơn.

Trẻ con trong nhà thì vẫn thế, các bà mẹ dạy và quyết hết. Mấy ông bố biết gì, chỉ đường lối linh tinh.

Đến nhà trẻ, toàn các cô dạy hổ, không thấy được mống ông dạy trẻ nào. Trẻ lớn lên trong vòng tay, trong tình thương, nhưng cũng trong "chân lý phụ nữ", thiếu hẳn sự dũng mãnh, rành rọt trong trí tuệ và trong quyết đoán.

Nhìn về công lao to lớn như thế, rõ ràng phụ nữ Việt vẫn còn hơi bị nhường nhịn quá nhiều quyền lợi.

Phụ nữ Việt phải được những quyền bình đẳng lớn hơn nữa.

Những nghề nặng nhọc, phải giải phóng phụ nữ. Đơn giản như toàn bộ ngành gom rác, đổ rác ở các thành phố lớn ở ta, tại sao toàn do phụ nữ đảm nhiệm? Trong khi đó ở phương Tây thì hoàn toàn đàn ông phải làm những công việc nặng nhọc này.

Những vị trí lãnh đạo, phải có tỉ lệ tham gia tối thiểu của phụ nữ, được luật định đảm bảo.

Nhiều ngành nghề "phụ nữ", phải xem xét lại, và có tỉ lệ đàn ông tham gia bắt buộc. Ví dụ ngành nuôi dạy trẻ em, ngành giáo dục sơ học. Trẻ không chỉ học kiến thức, mà còn phải học cách cư xử, học tính cách, học phương thức, học hành động.

Vậy nói chuyện phụ nữ xứ Việt, kể cũng cần ngắm "gương" của họ.

Lời cuối thế này, dẫu sao thì cũng có một số rất nhỏ ngoại lệ những đàn ông Việt đã "dứt váy ra đi"  thành công. Không biết tôi nằm trong số nào đây nhỉ?
HOÀNG Hồng-Minh

18 comments:

  1. Phụ nữ muôn đời vẫn là ...phụ nữ :)))

    ReplyDelete
  2. Hi hi..phụ nữ muôn năm :))))

    ReplyDelete
  3. anh Hải viết hay quá ! cảm ơn cô

    ReplyDelete
  4. Mình thấy Thanh hải viết thật chân tình nên đem về đây.

    ReplyDelete
  5. nhiều lúc e cũng ko muốn đọc bài này nữa... vì nó như cục đá vô hình đè thêm lên người PN...

    ReplyDelete
  6. Có người hiểu và đồng cảm với mìn mà sao thấy nặng?

    ReplyDelete
  7. Vì qua ngày này rồi thì đâu nó lại trở về đấy thôi, hu hu .

    ReplyDelete
  8. Người Việt thiếu số theo chế độ mẫu hệ, Người Việt đa số chắc phải theo hướng này cho xứng với trách nhiệm của giới chị em phụ nữ thôi!

    ReplyDelete
  9. Anh Pet. ơi! Người Việt thiểu số họ không thích khi gọi là người dân tộc phải không?

    ReplyDelete
  10. Vẫn còn một số vùng quê mang nặng tư tưởng "trọng nam, khinh nữ" chị nhỉ. Nhưng hình như tình hình cũng đã thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Bây giờ nam hay nữ cũng đều được đánh gia công bằng, chỉ có điều là thiên chức làm mẹ của phụ nữ thì bao giờ cũng còn mãi mãi.

    ReplyDelete
  11. hên xui chị... e nhìn về phía khác cơ :)

    ReplyDelete
  12. Rất vui vì chị thích bài viết của BomTeo

    ReplyDelete
  13. Bài viết của Bom Teo rất sát với thực tế và đầy tính nhân văn.

    ReplyDelete
  14. Nhìn chung là vậy, nhưng phép vua thua lệ làng, có nơi vấn còn rất hủ lậu. Khổ nhất là ta đang sống trong giai đoạn chuyển giao.

    ReplyDelete
  15. Trong chế độ Miền Nam trước 75, mọi người quen gọi họ là "đồng bào Thượng, người Thượng". Sau 75, CS vào sửa lại cách xưng hô, gọi họ là người dân tộc. Theo mình nghĩ, gọi họ là người Thượng hoặc anh em sắc tộc thiểu số đúng hơn, vì từ Thượng dùng để chỉ về người anh em thiểu số sống trên miền cao nguyên. Ngày nay, Giáo hội Công giáo vẫn thường chính thức dùng từ người Thượng để chỉ về họ cách rất trân trọng. Từ "người dân tộc" đã được nghe sử dụng nhiều về sau này mỗi khi nói về người thiểu số thật ra không chính xác, vì khi nói đến chữ "dân tộc" thì cũng bao gồm cả người Việt đa số nữa thường được phân loại là dân tộc "Kinh" (Yuan), như trong Thẻ CMND có ô dành để khai "dân tộc" Kinh, Bahnar, Rhađê, Sé Đăng, Thái, Mường,v.v.

    ReplyDelete
  16. BT cũng nghĩ như thế. Gọi là người dân tộc vậy không nói lên được điều gì.

    ReplyDelete