Monday, February 4, 2013

Những loài cây cỏ mang tên rắn (xà)

Năm Quý Tỵ đang đến dần, giới thiệu với các bạn một số loài cây cỏ ở nước ta có mang tên rắn ( xà) để hiểu thêm sự phong phú của hệ thực vật Việt Nam:

1. Bạch hoa xà: có tên khoa học là Plumbago zeylanica L., Họ Đuôi công – Plumbaginaceae,

Công dụng, liều dùng cây bạch hoa xà: Chữa các bệnh ngoài da, vết thương, vết loét, mụn nhọt sưng tấy chưa có mủ, chữa ghẻ và chữa rắn độc cắn (giã đắp, cấm uống).
Liều dùng cây bạch hoa xà: Tùy theo diện tích viêm tấy mà tăng giảm liều lượng thuốc. Dùng nước rễ Bạch hoa xà sắc đặc để bôi chữa ghẻ.

2.Bạch hoa xà thiệt thảo
Tên khoa học: Hedyotis diffusa (Willd),  Họ: Cà phê (Rubiaceae). Tên khác: Giáp mãnh thảo, Xà thiệt thảo.

Công dụng: Thanh nhiệt giải độc, lợi niệu thông  lâm, tiêu ung tán kết.
Ho, hen xuyễn do phế thực nhiệt, lâm lậu do bàng quang thấp nhiệt, viêm amidan, viêm họng cấp, sang chấn, rắn độc cắn, mụn nhọt ung bướu, trường ung (viêm ruột thừa), dương hoàng (viêm gan cấp tính).
Cách dùng, liều lượng: Ngày 15 - 60 g dạng khô, 60 - 320 g dạng tươi, phối ngũ trong các bài thuốc. Dùng ngoài dạng tươi lượng thích hợp giã nát đắp tại chỗ.
3. Bạch xà

Bạch xà hay Ráng đa túc tai nhỏ - Polypodium subauriculatum Blume, thuộc họ Dương xỉ - Polypodiaceae.
Mô tả: Cây có thân rễ bò rất dài, màu mốc trắng, vẩy nhỏ màu hung quăn. Lá thưa, cuống vàng dài 20-30cm, phiến dài 20-60cm. Lá chét bậc nhất mọc ngang, cách nhau 2cm, dài 10-15cm, rộng 16-20mm, mỏng gốc hơi có tai, mép nguyên hay có răng, đầu thon dài, có đốt ở cuống ngắn.

4.Hắc xà: Còn gọi Vẩy lợp hung - Davallia orientalis C. Chr. thuộc họ Vẩy lợp - Davalliaceae.
Mô tả: Cây có thân rễ dày (6-8mm) bò, phủ nhiều vẩy xếp lợp, màu hung, hình tam giác - ngọn giáo rộng. Lá có cuống dài 15-40cm, màu nâu đỏ có rãnh; phiến lá kép lông chim 3-4 lần; lá chét bậc 2 có cuống rất dài. Các ổ túi bào tử nằm ở mặt dưới lá, nhưng nổi lên ở mặt trên, áo cách xa mép lá một khoảng ngắn. Bào tử hình trứng hay hình thận, không màu.
Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Davalliae Divaricatae
Lá cây được dân gian, dùng giải độc, trị sốt, kinh giật; còn dùng phối hợp với Huỳnh xà, Bạch xà trị rắn cắn.
5. Lan vảy rắn
Lan vẩy rắn, Vẩy cá, Tụ thạch hộc - Dendrobium lindleyi Steud, thuộc họ Lan- Orchidaceae.
Mô tả: Thân rễ bò, mang giả hành cao 3-10cm, to 1,5cm, xanh, lúc khô vàng. Lá 1, phiến cứng, tròn dài. Chùm thõng, dài 20-30cm, hoa vàng tươi, tâm màu cam, lá đài và cánh hoa dài 1,5-1,7cm, môi tròn, có lông ở gốc và tâm, mép nhăn, chót hơi lõm.
Ra hoa vào tháng 3-5.  


6. Lưỡi rắn

Tên khác: 
Cóc mẵn, Bòi ngòi ngù, Vỏ chu, Vương thái tô, Đơn dòng, Đơn thảo, Xương cá, Nọc sởi, Mai hồng, An điền, Xà thiệt thảo, Tán phòng hoa nhĩ thảo
Tên khoa học: 
Hedyotis corymbosa (L.) Lam.
Tên đồng nghĩa: 
Oldenlandia corymbosa L.
Họ: 
Cà phê (Rubiaceae)


Tác dụng dược lý - Công dụng: 

Toàn cây có tác dụng thanh nhiệt, giải độc; acid geniposidic trong cây có tác dụng tẩy xổ.
Công dụng
Theo kinh nghiệm dân gian, cây được dùng tươi để giải độc, chữa rắn cắn rất có hiệu quả. Khi bị rắn độc cắn, lập tức đặt garô phía trên vết rắn cắn cho nọc độc khỏi lan nhanh vào tuần hoàn của cơ thể, tiếp đó lấy một sợi tóc căng thẳng gạt đi gạt lại trên bề mặt vết thương để làm bật những răng phụ của rắn còn cắm trong da, nặn cho máu chảy ra. Sau đó lấy 100 g cây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt cho uống, dùng bã đắp lên vết thương, băng lại, khi uống thuốc nên cởi dây garô. Ngày uống 2-3 lần. Những lần sau tăng liều lượng lên 200 g. Sau khi uống thuốc, người bị nạn thấy đỡ đau nhức, ngủ được.
Ngoài tác dụng chữa rắn cắn, cây còn chữa sốt cao, sốt cách nhiệt, đau nhức xương, thấp khớp. Ở Đài Loan, cây cũng được dùng làm thuốc hạ sốt. Ở Philipines, dùng làm thuốc kiện vị, bổ thần kinh và chữa đau răng. Ở Malaysia, cây được giã nát, đắp ngoài để là lành vết thương. Ở Trung Quốc và Ấn Độ, cây được dùng như một vị thuốc cổ truyền để chữa các rối loạn về gan, đau lá lách và sưng gan, vàng da. Các nghiên cứu gần đây cho thấy H. corymbosa có tác dụng bảo vệ gan chống lại sự ngộ độc paracetamol. Ngoài ra, cây còn chữa sốt rét, ung thư ruột, bỏng, trị lãi; rễ trị đau dạ dày.


Cỏ lưỡi rắn trắng - thảo dược chữa ung thư

7. Sống rắn

Sống rắn, Cam thảo cây - Albizia myriophylla Benth., thuộc họ Đậu - Fabaceae.
Mô tả: Cây bụi cao 2-4m, mọc dựa vào cây to và vươn cao. Thân cành màu nâu, có cạnh, sau tròn, khi chặt có nước chảy ra. Lá kép hai lần lông chim chẵn gồm rất nhiều lá chét nhỏ, có 2 tuyến ở cuống lá. Hoa màu trắng mọc thành chùm ở đầu cành, có nhiều nhị. Quả đậu rất mỏng, chứa 4-9 hạt.

Mùa hoa quả tháng 4-11.
Dân gian thường dùng nó làm thuốc giải nhiệt và chữa ho như Cam thảo. Ngày dùng 10-20g sắc uống, thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Ở Thái Lan, rễ được dùng giải khát và nhuận tràng; gỗ và quả dùng làm thuốc trị ho.

8. Xà bà, Hoàn tiên - Waltheria americana L. (W.indica L.), thuộc họ Trôm - Sterculiaceae.Mô tả: Cây thảo hay cây bụi thấp, chỉ cao 35-150cm. Lá có phiến xoan, dài 2-4,2cm, rộng 1,2-2,2cm, màu lục tươi, có lông hình sao như nhung màu trắng; cuống mảnh có lông, lá kèm hình sợi. Cụm hoa xim có hình cầu ở nách lá. Hoa nhiều, nhỏ, màu vàng; đài có lông dày; cánh hoa dài 4-5mm, nhị 5 dính thành bẹ nhẵn; bầu thụt vào trong, vòi có lông hình sao; đầu nhụy thành bó có 25 cành. Quả rất nhỏ, hình chùy; hạt đơn độc màu đen, có lông.
Ra hoa kết quả tháng 11 đến tháng 6.Bộ phận dùng: Rễ, thân - Radix et Caulis Waltheriae Americanae.Nơi sống và thu hái: Loài của toàn thế giới nhiệt đới. Thường gặp phổ biến trên đất hoang, dọc đường đi vùng đồng bằng khắp nước ta.Tính vị, tác dụng: Vị cay, hơi ngọt, tính bình; có tác dụng khư thấp, khu phong, tiêu viêm, giải độc.Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Vân Nam (Trung Quốc) dùng làm thuốc hạ tiêu, bạch đới, mụn nhọt ghẻ lở và viêm tuyến vú.


Malaixia , cây được xem như là làm dịu và long đờm, được dùng chữa ho.
Ở Philippin, cây dùng làm thuốc hạ sốt và trị giang mai.
Ở Nam Phi, phụ nữ dùng nước sắc rễ uống chữa vô sinh, cơ thể gầy yếu.
9. Xà căn thảo: Ophiorrhiza japonica Blume, thuộc họ Cà phê - Rubiaceae.
Mô tả: Cây thảo mọc đứng, cao 12-15cm, có thể đến 40cm, không lông. Lá mọc đối; phiến lá thon, dài 2,5-8cm, rộng 1,5-2cm, đầu nhọn dài, mỏng; gân phụ 7-10 cặp, cuống dài 1-2,5cm; lá kèm nhỏ, mau rụng. Chùm hoa mang ít xim bò cạp dài 1-2cm, với 5-10 hoa cao 1,5cm, tràng có ống dài 1,2cm. Quả nang dẹp dẹp, dạng củ ấu, rộng 4,5-8mm; hạt nhỏ có cánh.

Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Ophiorrhizae Japonicae.
10. Xà cô:Balanophora fungosa J.G. et G. Forst. subsp. indica (Arn.) B. Hansen - Dó đất, Xà cô.
Cây sống ký sinh ở trên rễ cây khác; thân thoái hóa thành một củ có nhiều dạng khác nhau, thường gồm nhiều thùy.

Hoa đơn tính khác gốc. Cụm hoa đực dài, trục hoa ở gốc có một ít lá; bao hoa 4 - 7 thùy; nhị có 4 - 7 bao phấn. Cụm hoa cái ngắn, hoa không có bao hoa và chỉ là những khối hình trứng có chân và kéo dài bằng một sợi mảnh.
Phân bố từ Ấn Độ, Đông Dương đến đảo Hải Nam, bán đảo Malaixia, đảo Xumatra(Inđônêxia), vài đảo ở Thái Bình Dương và Ôxtrâylia. Ở nuớc ta có gặp từ Hà Tây tới Quảng Nam, Kon Tum, Khánh HòaNinh ThuậnLâm Đồng và An Giang.
Cây mọc phổ biến trong rừng thường xanh, ở độ cao ( 150 ) 500 - 2600m.
Ra hoa quanh năm, nhưng chủ yếu từ tháng 11 đến tháng 4. Sống ký sinh trên rễ các loài cây thân gỗ, cả cây gỗ và dây leo, như rễ của nhiều loài cây của các chi Cissus, Tetrastigma thuộc họ Nho và nhiều loài cây họ Đậu.


Balanophora fungosa J. R. et
G. Forst. subsp. indica
1. Cá thể đực;  2.Hoa đực; 3. Cá thể cái;  4. Hoa cái.

Đồng bào dân tộc ở Ninh Thuận thường dùng cây sắc nước uống làm thuốc trị  bệnh đau bụng và đau toàn thân. Có người dùng nó như vị Tỏa dương làm thuốc ngâm rượu bổ tinh, cường tráng, mạnh gân cốt.
11. Xà sàng

Còn gọi là  cây giần sàng.
Tên khoa học Cnidium monnieri (L.) Cuss. (Selinum momnnieri L.)
Thuộc họ Hoa tán Umbelliferae.
Tên giần sàng vì cụm hoa trông từ trên xuống giống cái giần hay cái sàng gạo, Người xưa nói vì rắn hay nằm lên trên và ăn hại cây này do đó gọi tên là xà sàng (xà là rắn, sàng là giường).
Người ta dùng xà sàng tử (Fructus Cnidii) là quả phơi hay sấy khô của cây xà sàng.


Đơn thuốc có xà sàng tử
1. Chữa tai ướt, ngứa: Xà sàng tử, hoàng liên (hoặc hoàng đằng) mỗi vị 4g, kinh 
phấn (calomet) 1g. Tán nhỏ trộn đều thổi vào tai.
2. Bạch đới khí hư: Xà sàng tử, phèn chua, hai vị bằng nhaum tán nhỏ. Nấu hồ trộn vào 
làm thành viên bằng quả táo, bọc lụa hay gạc cho vào âm hộ.
Thấy nóng bỏ ra. Có thể sắc để thụt rửa.
3. Lòi dom: Xà sàng tử 40g, cam thảo 40g, tán nhở trộn đều. Ngày uống 9g chia làm 3 lần 
uống (mỗi lần 3g).
Đồng thời nấu nước xà sàng tử xông và rửa chỗ đau.
Bài thuốc chữa liệt dương, đơn giản mà có hiệu quả:Công thức: Xà sàng tử 30g, hoắc 
hương 30g, lộ phong phòng (tổ ong) 15g, đinh hương 10g, nhục quế 15g.Cách chế: Tất cả
 các vị thuốc đem sấy khô, tán vụn, đựng trong túi vải buộc kín miệng rồi đem sắc cùng 
với 3,5 lít nước trong 60 phút, trước sắc vũ hoả (lửa to), sau sắc văn hoả (lửa nhỏ) cho 
đến khi còn khoảng 2,5 lít là được.Cách dùng: Đổ dịch thuốc ra chậu và xông hạ bộ cho 
đến khi nước nguội dần rồi tiếp tục ngâm dương vật và tinh hoàn cho đến khi nước 
thuốc nguội hẳn. Mỗi ngày làm một lần vào buổi tối trước khi đi ngủ. Mỗi thang dùng 5
 ngày vào mùa đông và 3 lần vào mùa hạ. Mỗi liệu trình là 15 ngày, giữa các liệu trình 
nghỉ 3 ngày. Bệnh nhẹ chừng một liệu trình, bệnh nặng chừng 2 - 3 liệu trình là khỏi, sau
 khi khỏi nên duy trì ngâm thuốc cách nhật để củng cố.Theo y học cổ truyền, thông 
thường, liệt dương là do mệnh môn hỏa suy. Trong bài, các vị thuốc như xà sàng tử, 
nhục quế, lộ phong phòng, đinh hương đều có công năng trợ mệnh môn hỏa, hưng dương 
khởi nuy và cũng là những vị thuốc thường có mặt trong thành phần của các phương 
thuốc uống trong để chữa bệnh liệt dương. Bài thuốc đạt được hiệu quả trị liệu thông
 qua yếu tố nhiệt và chất thuốc thẩm thấu qua da tác động trực tiếp tại chỗ làm lưu 
thông khí huyết và kích thích các huyệt vị có công dụng bổ dương như hội âm, trường 
cường, thúc cốt, khí hải, quan nguyên...Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn



12. Xà thiệt có cuống:

còn gọi là cỏ lưỡi rắn - Ophioglossum petiolatum Hook., thuộc họ Xà thiệt - Ophioglossaceae.
Mô tả: Cỏ cao 10-25cm, thân rễ hình trụ, mang ít rễ thường có củ. Cuống cao bằng nửa cây; gốc phiến tròn hay tù, dài 2-7cm, mập, thót lại đột ngột ở gốc thành cuống. Bông cao 2-4cm, nằm ở đầu một cuống dài 5-12cm, sinh ra đúng ở gốc của lá không sinh sản. Túi bào tử 15-30 cái ở mỗi bên.

 Ở nước ta, thường gặp trên đất rừng và đồng bằng từ Sapa (Lào Cai) tới Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam - Ðà Nẵng.
 Vị đắng, ngọt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết tán ứ, tiêu thũng giảm đau.
 Ở Trung Quốc, cây dùng trị viêm phổi của trẻ em, trẻ em kinh phong, đau dạ dày, trẻ em sốt cao. Vừa uống vừa dùng ngoài trị rắn độc cắn; rết cắn, sưng vú, mụn nhọt lở ngứa, gãy xương, đòn ngã tổn thương và ứ huyết sưng đau.
Ở Tân đảo, phụ nữ muốn sinh con trai thường dùng cây này làm rau ăn.







13. Xương rắn
Xương rắnxương rồng tàu hay xương rồng bát tiên (danh pháp hai phầnEuphorbia milii) là một loài thực vật có hoa thuộcHọ Đại kích (Euphorbiaceae), có nguồn gốc từ Madagascar. Hoa xương rắn có nhiều màu từ trắng, hồng , hồng cam, màu cốm đến màu đỏ thẩm

5 comments:

  1. VN mình có nhiều loại dược thảo ,thực vật quý chị nhỉ ! Nhưng vấn đề là làm sao chiết xuất được những tinh chất thành phần của nó,loại bỏ những tạp chất có thể gây độc hại.Cần lưu ý với những ai bệnh Tiểu đường,hầu như trong tất cả các loại thực vật dù là ngọt hay vị đắng nghét cũng luôn có chưa một lượng đường đáng kể nằm bên trong.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Khi đã nghiên cứu đầy đủ về thành phần hóa học của các phân đoạn chiết bởi các dung môi khác nhau thì sẽ biết cách chiết xuất hoạt chất cần thiết.

      Delete
  2. hoa đẹp và dược tính cũng quý bạn hiền ha .

    ReplyDelete